^Back To Top
TÓM TẮT
Hiện nay chăn nuôi bò sữa ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới đang bị đe dọa bởi hai loại bệnh chủ yếu là bệnh dinh dưỡng và bệnh sinh sản. Bệnh dinh dưỡng xảy ra có thể là do khẩu phầu ăn không hợp lý hoặc cách phối trộn thức ăn không đảm bảo đủ các chất... làm ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sinh sản cũng như sức sản xuất của đàn bò. Tuy là một vấn đề đáng chú ý, nhưng bệnh dinh dưỡng sẽ do các nhà khoa học về Dinh dưỡng nghiên cứu và tìm ra các phương pháp hiệu quả nhất để giải quyết vấn đề. Điều chúng tôi muốn đề cập đến ở đây là bệnh sinh sản trên bò sữa, nổi bật lên là bệnh buồng trứng. Gồm ba bệnh thể vàng tồn lưu, u nang buồng trứng và buồng trứng không hoạt động, đã và đang gây ảnh hưởng rất lớn đến ngành chăn nuôi bò sữa ở nước ta.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về đặc điểm sinh sản và những phương pháp điều trị bệnh buồng trứng nhằm nâng cao khả năng sinh sản của bò. Việc sử dụng kích tố hướng sinh sản để nâng cao khả năng sinh sản cũng như khắc phục những hiện tượng mà bệnh buồng trứng gây ra đã được các nhà khoa học trong nước sử dụng. Các kích tố có thể sử dụng riêng biệt hoặc kết hợp với nhau và thu được nhiều kết quả tốt. Có thể thấy, những phương pháp điều trị bệnh sinh sản ở nước ta đang cho những kết quả tốt. Tuy nhiên, việc sử dụng hormone ở Việt Nam là vấn đề đang ứng dụng một cách chưa khoa học không đúng phương pháp hoặc thiếu hiểu biết. Do vậy, không những không có tác dụng mà tác dụng ngược lại như chai buồng trứng dẫn đến vô sinh vĩnh viễn, lúc đó bò thường không động dục hoặc động dục nhưng thụ tinh nhiều lần vẫn không có chửa.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, tình hình chăn nuôi bò sữa nói riêng và chăn nuôi bò nói chung đang gặp phải một số vấn đề khó khăn về khả năng sinh sản của đàn bò cái. Tỷ lệ sinh sản của đàn bò được nuôi nhỏ lẻ trong nhân dân cũng như được nuôi theo qui mô lớn trong các trang trại chăn nuôi tư nhân và quốc doanh còn khá thấp. Những rối loạn về sinh sản như chậm lên giống (chưa lên giống sau 26 tháng tuổi), nân sổi (chưa lên giống sau 30 tháng tuổi), chậm động dục lại (trên 5 tháng sau khi đẻ), rối loạn chu kỳ sinh sản, đẻ sót nhau, viêm nhiễm cơ quan sinh dục... đã làm giảm hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi. Ví dụ, khoảng cách giữa 2 lứa đẻ ở bò là khoảng từ 60 đến 100 ngày. Nếu khoảng cách này càng tăng thì tổn thất về kinh tế càng lớn do ảnh hưởng trực tiếp của nó đến năng suất sữa của chu kỳ đang vắt và của chu kỳ tiếp theo sau và số bê được sinh ra trên một đầu bò cái. Cùng với đó là giảm tiến độ di truyền của toàn đàn.
Theo một số tác giả ở công ty Hóa dược Intervet vào năm 2000, ở bò sữa giống thuần, rất hiếm có con động dục lại 45 ngày sau khi đẻ. Trong vòng từ 60 đến 90 ngày sau khi đẻ, động dục tự nhiên chỉ xảy ra ở tỷ lệ 1/3 của toàn đàn. Nếu thụ tinh đạt 70% thì chỉ có khoảng 25% số bò được thụ thai. Vì vậy, muốn duy trì khoảng cách giữa hai lứa đẻ từ 12 đến 13 tháng (khoảng 1 lứa/năm), việc chủ động gây động dục và rụng trứng sau khi đẻ và chủ động dẫn tinh là điều cần thiết. Nhìn chung, việc chủ động gây động dục để rút ngắn thời gian giữa hai lứa đẻ ở bò và đặc biệt là bò sữa chưa trở thành một khâu ổn định trong kỹ thuật chăn nuôi ở Việt Nam. Các biện pháp xử lý hóc môn chỉ được tiến hành khi sự chậm sinh sản đã chuyển sang giai đoạn bệnh lý. Thêm vào đó, do việc sử dụng hóc môn còn chưa có một quy trình cụ thể, nên thiệt hại và những bất trắc do sử dụng hóc môn không hợp lý gây ra cũng khá lớn.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở nghiên cứu các phương pháp khắc phục hiện tượng rối loạn sinh sản
Có nhiều phương pháp để khắc phục hiện tượng rối loạn sinh sản, nguyên tắc điều trị của bất kỳ phương pháp nào cũng đảm bảo hai yêu cầu:
- Hồi phục được khả năng sinh sản cho gia súc.
- Bảo toàn đàn gia súc về khả năng khắc phục và sử dụng chúng.
- Để đảm bảo việc điều trị có kết quả khâu chẩn đoán phải chính xác, can thiệp kịp thời cũng như việc lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp có ý nghĩa quan trọng. Có thể dùng các biện pháp sau để khắc phục hiện tượng rối loạn sinh sản:
Vitamin liệu pháp: Kích thích các phản ứng miễn dịch của cơ thể, thúc đẩy quá trình tái sinh, hồi phục tử cung, buồng trứng. Các vitamin thường dùng là các vitamin thuộc nhóm A, D, E.
Phương pháp điều trị ngoại khoa: Có thể dùng một số thủ thuật ngoại khoa để phá vỡ thể vàng, phá vỡ hoặc chọc dò u nang buồng trứng, cắt bỏ hoàn toàn hoặc một phần đối với trường hợp u nang buồng trứng.
Hormone liệu pháp: Là biện pháp sử dụng các chế phẩm hormone tự nhiên hay tổng hợp. Cơ chế tác dụng của hormone liệu pháp dựa trên cơ sở thay thế kích thích và triệu chứng liệu pháp. Nhiều hormone có thể sử dụng để khắc phục hiện tượng rối loạn sinh sản như những chế phẩm hormone thuộc nhóm estrogen (Syoestrol, Folicullin, Estrograndon, Estroginol...). Các chế phẩm thuộc thuỳ sau tuyến yên như Oxytoxin, Gipotoxin. Các chế phẩm estrogen dùng điều trị các bệnh sát nhau, xơ hoá tử cung, giảm hoặc mất trương lực cơ tử cung và một số trường hợp thiểu năng buồng trứng.
2. Giải pháp sử dụng chế phẩm Gonadotropin
Dựa trên nguyên lý kích thích trực tiếp đến hoạt động của buồng trứng cũng như kích thích gián tiếp thông qua hoạt động tiết gonadotropin của tuyến yên, các chế phẩm gonadotropin được sử dụng rộng rãi để khắc phục vô sinh ở trâu, bò cái. Các chế phẩm thường dùng là PMSG (Pregnant Mare Serum Gonadotropin), Gravohormone, HCG (Human Chorionic Gonadotropin).v.v.
Huyết thanh ngựa chửa (PMSG): Là loại dung dịch màu vàng nhạt, trong một số trường hợp có màu hơi đỏ có khi hơi lắng cặn do sự kết tủa của các protein khi lắc tạo hỗn dịch màu vàng nhạt.
Tác dụng của PMSG nhờ có hai loại hormone FSH và LH, chủ yếu là FSH sẽ kích thích sinh trưởng và phát triển của noãn bao, gây rụng trứng và hình thành thể vàng. PMSG làm tăng nhanh sự sinh trưởng, chín của tế bào trứng và rụng trứng, làm tăng biểu hiện động dục, tạo điều kiện cho sự thụ tinh, PMSG có hiệu quả nhất đối với trâu, bò cái bị nhược năng buồng trứng, mất tính dục, có chu kỳ động dục nhưng không rụng trứng.
Kích tố nhau thai người (HCG) Chế phẩm này được thu từ nước tiểu của người phụ nữ có thai. HCG được sinh ra từ tế bào Langerhans tiết dịch và được bài tiết qua nước tiểu. Do tỷ lệ LH trong kích tố này cao hơn FSH và nó có tác dụng như LH ở thuỳ trước tuyến yên do đó thúc đẩy sự rụng trứng và phát triển thể vàng.
HCG được sử dụng trong trường hợp nhược năng buồng trứng, đa nang buồng trứng, động dục liên tục ở trâu bò. Kích thích rụng trứng, tăng sinh sản. HCG được sản xuất dưới dạng đông khô hoặc bột kết tinh màu trắng nhạt, ở nước ta chế phẩm HCG được viện quân y 103 sản xuất ở dạng đông khô chứa 5.000-10.000 UI/lọ. Công ty nuôi trồng thuỷ sản trung ương cũng sản xuất HCG dưới dạng đông khô chứa từ 2.000-20.000 UI/lọ.
Sử dụng PMSG và HCG trên đàn bò chậm sinh ở nông trường Phù Đổng. PMSG được tiêm với liều 15 đvc/kg thể trọng. Một số bò cái khác được tiêm thêm HCG với liều 1500 UI/con, kết quả là nhóm bò cái cơ bản có tỷ lệ động dục 88,10%, thụ thai 67,50%. Bò cái tơ động dục 86,60% và thụ thai 61,10%. Ở số bò được tiêm kết hợp PMSG với HCG cho kết quả cao hơn, tỷ lệ động dục từ 89-95%, tỷ lệ thụ thai đạt 70,70-77,70%. Các tác giả cho biết chu kỳ sinh dục của bò được tiêm PMSG và HCG thể hiện như sinh lý bình thường, thời gian bắt đầu động dục sau khi xử lý trung bình là 5,1 ngày (dao động 2-10 ngày).
Nguyễn Tấn Anh và cs. (1995) đã sử dụng huyết thanh ngựa chửa cho bò sữa sinh sản và bò tơ đạt tỷ lệ động dục tương ứng là 76,75%, 72,94%, tỷ lệ thụ thai là 76,05% và 73,38%.
3. Giải pháp sử dụng Progesterone phối hợp chế phẩm Gonadotropin
Chế phẩm hormone tự nhiên ở dạng tinh khiết màu trắng, không tan trong nước, chỉ tan trong rượu, ether, clorofoc, tan ít trong dầu, thường được sản xuất ở dạng dung dịch dầu nồng độ 1% và 2,5% (10 và 25 mg/ml, 1 mg = 1 UI).
Nguyên lý của phương pháp là khi tiêm progesterone sẽ làm teo nhỏ thể vàng, kích thích tuyến yên tiết FSH, làm phát triển noãn bao. Sau khi progesterone hết tác dụng, tuyến yên sẽ tiết gonadotropin với số lượng lớn. Kết hợp với việc thêm chế phẩm gonadotropin bổ sung sẽ làm cho noãn bao chín và rụng trứng, con vật sẽ động dục và thụ thai. Phương pháp này rất hiệu quả khi điều trị thể vàng tồn lưu, u nang buồng trứng, nhược năng buồng trứng.
Sử dụng progesterone gây động dục ở bò có nhiều phác đồ điều trị và liều lượng khác nhau. Có thể dùng riêng biệt hoặc kết hợp với PMSG và HCG. Theo Hoàng Kim Giao và cs. (1997) đã sử dụng phác đồ sau đạt hiệu quả cao:
Tiêm cho bò progesterone vào các ngày 1, 3 và 5 với liều lượng tương ứng là 30 mg, 50 mg, 75 mg. Ngày thứ 7 tiêm PMSG 1500-1800 đvc/con, ngày 9 và ngày 10 bò động dục và phối giống.
Tiêm progesterone vào các ngày 1, 4 và 7 với liều tương ứng là 30 mg, 60 mg và 90 mg, ngày thứ 9 tiêm PMSG liều 1500-1800 đvc/con, ngày thứ 11-12 bò động dục và phối giống.
4. Giải pháp sử dụng các chế phẩm PGF2α
Prostaglandin có tác dụng phân hủy thể vàng kích thích sinh trưởng, phát triển bao noãn, kích thích tiết GnRH, FSH, LH gây rụng trứng, vì vậy các chế phẩm PGF2α được sử dụng rộng rãi trong điều trị vô sinh và chậm sinh do thể vàng tồn lưu, điều trị u nang buồng trứng, động dục ngầm, phối giống nhiều lần không chửa.
Có rất nhiều chế phẩm PGF2α tổng hợp, các chế phẩm PGF2α hay dùng là Oestrophan, Enzaprost, Estrumate, Lutalyse ... sau khi xử lý bằng chế phẩm PGF2α thì thể vàng chức năng nhanh chóng bị phân huỷ dẫn tới hàm lượng progesterone trong máu giảm nhanh so với trong điều kiện tự nhiên (hàm lượng progesterone trong điều kiện tự nhiên bắt đầu giảm sau khi prostaglandin được phân tiết từ 3-6 giờ và thể vàng bị phân huỷ hoàn toàn trong vòng 24-48 giờ). Nồng độ progesterone trong máu giảm đi làm trung tâm điều khiển sinh học ở Hypothalamus được giải phóng sẽ tiết GnRH, hormone này kích thích tuyến yên phân tiết gonadotropin (FSH, LH) làm bao noãn chín và rụng trứng. Nếu cùng lúc xử lý trên nhiều gia súc cái, chúng sẽ động dục đồng loạt.
Sử dụng prostaglandin điều khiển sinh sản đã được ứng dụng rộng rãi. Liều lượng của PGF2α và cách sử dụng theo các tác giả trên, phụ thuộc vào bản thân hoá học của PGF2α, trạng thái sinh lý của gia súc cái và giai đoạn của chu kỳ động dục.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Hoàng Nghĩa Sơn (2012). Điều trị chậm động dục ở bò sữa bằng Hormone. Tạp chí Sinh học số 34, trang 306-312.
[2]. Sử Thanh Long, Nguyễn Thị Thúy (2015). Sử dụng hormone trong điều trị bệnh sinh sản ở bò sữa nuôi tại huyện Ba Vì – Hà Nội. Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y số 22, trang 66 – 74.
[4]. Nguyễn Tấn Anh và cs (1995), Sinh lý sinh sản gia súc, hà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội.
[5]. Nguyễn Tấn Anh, Đào Đức Thà, 2002. Kỹ thuật thụ tinh nhân tạo bò. Cẩm nang Chăn nuôi gia súc gia cầm. Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội.
[6]. Lê Xuân Cương và Lê Văn Thọ (1979). Kích tố ứng dụng trong chăn nuôi. Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội.
[7]. Lê Văn Ty (2007). Cải tiến và thích nghi các kỹ thuật gây động dục và rụng trứng trên bò sữa Hà Lan nhằm giải quyết vấn đề chậm sinh và rút ngắn khoảng cách giữa hai lần sinh con. Tạp chí Sinh học số 29, trang 78-82.
[8]. Quản Xuân Hữu (2003). Nghiên cứu sử dụng GnRH tái tổ hợp để điều khiển động dục đồng pha và cấy phôi bò. Báo cáo khoa học, Hội nghị Khoa học Công nghệ sinh học toàn quốc.